Giáo sư Nguyễn Chung Tú, một nhà khoa học, một người thày - Cao Xuan An

Giáo sư Nguyễn Chung Tú

Tôi được biết Giáo Sư Nguyễn Chung Tú qua bài học đầu tiên về gương phẳng. Với thí nghiệm một tấm kính trong suốt ở giữa, 2 cây nến ở hai bên, đối xứng, nhưng một cây được thắp, một cây không. Khi Giáo Sư quay cây nến thắp sáng ra trước, nhìn trong kính, thấy cây kia cũng được thắp sáng. Chỉ trong một thoáng, sự đối xứng giữa ảnh ảo và vật thật đã được cảm nhận một cách nhanh chóng. Mặc dù trước đó tôi đã được học về gương phẳng từ lớp Đệ Tứ (lớp 9) và lớp Đệ Nhị (lớp 11), nhưng bài học này ở năm Toan-Lý-Hóa (MPC) đầu Đại Học vẫn là bài học làm tôi ghi nhớ sâu đậm mãi đến nay. Bởi tính cách thực nghiệm, bởi sự giản dị, và bởi phương pháp sư phạm của giáo sư. Sau đó, có cơ duyên, tôi được thụ giáo trong nhiều năm và cộng sự với Giáo Sư trong khoa Vật Lý về giảng dạy cũng như những sinh hoạt ngoại học đường. Tôi có nhiều cơ hội tiếp xúc và nhận thấy, Giáo Sư chẳng những là một nhà khoa học, một nhà mô phạm, mà Giáo Sư còn luôn luôn quan tâm đến các vấn đề khác như giáo dục, văn hóa, và đạo đức nữa. Ấy là không kể tài quản trị với nhiều kinh nghiệm. Giáo Sư là một người Thầy.

Vài nét về tiểu sử.

Giáo Sư Nguyễn Chung Tú sinh tại Hà Nội ngày 31/08/1922, năm nay được 91 tuổi. Xuất thân trong một gia đình có nhiều nhà giáo (thân phụ, chú ruột và chị cả), sự nghiệp của Giáo Sư gắn liền với Đại Học Khoa Học Saigon (ĐHKHSG).

Tuy thân phụ mất sớm, lúc chỉ mới 10 tuổi, nhưng Giáo Sư rất hiếu học. Giáo Sư từng là học sinh trường Bưởi (sau này là trường Chu Văn An), đậu Tú Tài Toán năm 1942 với phần thưởng danh dự toàn trường và tốt nghiệp Cử Nhân Toán Lý Hóa tại Đại Học Khoa Học Hà Nội (ĐHKHHN) năm 1946. Ngay sau đó, Giáo Sư đã giảng dạy tại ĐHKHHN và bắt đầu công việc nghiên cứu, với công trình đầu tiên là Tiểu Luận Cao Học về ''Kết tinh picrat alcaloid'' và bảo vệ tiểu luận năm 1954 tại Hà Nội. Tiếp theo,với nỗ lực vượt bực, Giáo Sư đã chuẩn bị, qua các Chứng Chỉ Đệ Tam Cấp về Quang Phổ Thực NghiệmHóa Học Lượng Tử tại ĐHKHSG và Vật Lý Hạt Nhân ở Nguyên Tử Lực cuộc Saclay (Paris Sud). Năm 1960 Giáo Sư đã đệ trình luận án về “Hiện tượng phát huỳnh quang của CdI2(Pb) ” tại Đại Học Rennes (Pháp) và được chấm đậu Tiến Sĩ Quốc Gia Vật Lý, hạng tối danh dự với lời khen của Ban Giám Khảo.

Giáo Sư hồi hương và phục vụ ngay tại ĐHKHSG từ năm 1960. Ngoài công việc giảng dạy Vật Lý, Giáo Sư đã đảm nhận các chức vụ Trưởng Ban (Khoa) Vật Lý, và Khoa Trưởng (Hiệu Trưởng) ĐHKHSG trong suốt thời gian 1965-1973. Trong thời gian này, Giáo Sư cũng là Trưởng Ban Vật Lý trong Ủy Ban Soạn Thảo Danh Từ Khoa Học.

Giáo Sư đã cho xuất bản nhiều tác phẩm và đăng nhiều bài báo trong các tạp chí chuyên môn cũng như phổ thông.

Nhà khoa học có tầm nhìn xa

Tôi được thụ giáo với Giáo Sư Nguyễn Chung Tú từ niên khoá 1960-61, ngay sau khi Giáo Sư hồi hương. Là nhà khoa học có tầm nhìn xa, từ những năm 1960, Giáo Sư đã muốn đem chuyên môn của mình về đề tài phát huỳnh quang để nghiên cứu về sinh huỳnh quang (bioluminescence) của một số sinh vật hải sản. Đề tài này, sinh huỳnh quang, 20 năm sau, vào thập niên 1980, trào lưu thế giới mới ồ ạt đề cập đến. Ngày nay, ta biết các protein phát huỳnh quang màu lục (GFP : green fluorescent protein), phát biểu từ reporter gene mang cùng tên GFP, được dùng để đánh dấu các tế bào hoặc báo hiệu lộ trình trong việc chuyển vận “gene” hoặc thuốc vào trong tế bào. Và điều rất thú vị là người đã tìm ra GFP đầu tiên này là Giáo Sư người Nhật, Osamu Shimomura, được giải Nobel năm 2008, đã phát kiến trên con sứa vào năm 1965, nhưng thực hiện trong những điều kiện nghiên cứu của một phòng thí nghiệm tại Mỹ. Ngoài ra, tôi cũng còn nhớ khi mới được tuyển vào làm giảng nghiệm viên Ban Vật Lý, đã được Giáo Sư cho đề tài nghiên cứu bằng giao thoa ánh sáng trên các phim mỏng tạo nên do nhỏ những giọt dầu lan ra trên mặt nước. Trong những điều kiện khó khăn của ÐHKHSG lúc đó, tôi cũng thực hiện được một số thí nghiệm rồi phải khoanh tay. Nhưng mãi 20 năm sau này, khi ở Đại Học Paris, khi chuyển hướng nghiên cứu sang Vật Lý Sinh Học (Biophysique), tôi mới thấy là những liposome đầu tiên chế tạo do nhà Sinh Hóa Học Bangham thực hiện vào năm 1965, dựa trên những những hiểu biết về màng mỡ mỏng đơn phân tử lan trên mặt nước…

Nhớ lại những chuyện này, tuy không thực hiện được gì ở Saigon trước đó, nhưng đã càng làm cho tôi cảm thấy khâm phục tầm nhìn của Giáo Sư, mặc dù có hơi... đi trước thời đại, nhưng là một tầm nhìn xa và rộng. Thật thế, nếu thế kỷ 20 được coi là thế kỷ của những phát minh vật lý thì nhiều dấu hiệu cho thấy thế kỷ 21 sẽ là thế kỷ về Sinh Học. Ngav từ những năm 1965, Giáo Sư đã tham gia dạy các chứng chỉ Sinh Lý Sinh Hóa (với Giáo Sư Mai Trần Ngọc Tiếng) và cộng tác cả với bên Y Khoa.

Tuy đã hồi hương năm 1960, Giáo Sư vẫn tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Giáo Sư vẫn giữ mối liên hệ với các nhà khoa học trên thế giới như Alfred Kastler (Nobel 1965), Maurice Françon… Và tuy trong hoàn cảnh giới hạn, Giáo Sư vẫn theo dõi thời sự khoa học, viết bài gửi đăng báo và xuất bản. Những quyển như “Năng lượng mặt trời ” in năm 1980, “Những mũi nhọn trong Quang Học hiện đại’’, 1996, là những thí dụ cụ thể.

Nhà giáo dục

Đúng theo quan niệm của một người giảng dạy và nghiên cứu [enseignant-chercheur, teacher-researcher], Giáo Sư chẳng những cẩn trọng trong nghiên cứu khoa học, phương pháp giảng dạy của Giáo Sư cũng rất được sinh viên chú ý. Các giáo trình Quang Học đã được sửa soạn cẩn thận và viết rất kỹ lưỡng. Giáo Sư dạy điều nào, chắc chắn điều đó, đúng như câu “tri vi tri'', rất là thanh liêm trí thức (honêteté intellectuelle). Cách giảng dạy của Giáo Sư cũng theo sát phương pháp sư phạm, rất dễ hiểu, nhưng luôn luôn chú trọng đến thực nghiệm trước lý thuyết. Các sinh viên theo ban Toán khi phải học thêm Vật Lý Đại Cương, đã được mở mang rất nhiều trong khía cạnh này.

Ngoài chuyên môn giảng dạy khoa học ở bậc đại học, Giáo Sư cũng rất chú tâm đến các vấn đề giáo dục ở trung học. Giáo Sưđã tham gia vào Hội đồng Cải tổ Chương trình Giáo dục để huấn luyện học sinh trước khi bước lên đại học.

Thêm vào đó, Giáo Sư còn chú trọng và đóng góp nhiều trong việc dùng chuyển ngữ tiếng Việt tại Đại học. Giáo Sư cũng đã là Trưởng ban Vật lý trong Ủy ban Soạn thảo Danh từ khoa học do Giáo Sư Lê Văn Thới làm Chủ tịch.

Ngoài việc giảng dạy theo giáo trình, Giáo Sư cũng còn chú trọng đến các ứng dụng của khoa học. Cho đến những năm cuối của cuộc đời, Giáo Sư vẫn còn mua báo Science et Vie dài hạn để đọc và tham khảo không ngừng nghỉ. Giáo Sư đã tham gia vào nhiều chương trình truyền hình để phổ biến kiến thức khoa học, góp phần nâng cao dân trí.

Năm 1994, Giáo Sư được tuyên dương là nhà giáo ưu tú.

Chú tâm về văn hoá

Giáo Sư là Con người khoa học-nhà giáo nhưng không khô khan khắc khổ. Giáo Sư cũng chú tâm nhiều đến khía cạnh văn hóa. Giáo Sư vẫn thường diễn thuyết tại Trung Tâm Văn Hóa Pháp (Centre Culturel Français, sau này là Maison de la Francophonie). Cũng làm thơ, viết bài vào những dịp lễ như trong tiết tháng 7, mùa lễ Vu lan…

Tại Maison de la Francophonie - Tháng 10-1999

Tài quản trị và ngoại giao

Ngoài công việc giảng dạy và nghiên cứu, Giáo Sư còn đảm nhận chức vụ Khoa trưởng (Hiệu trưởng) ÐHKHSG trong những năm 1965-1973, Phó Hiệu trưởng Ðại Học Hùng Vương cùng với Giáo Sư Ngô Gia Hy. Tại Đại Học này, tôi đã có dịp được đến thăm Giáo Sư đúng vào ngày giỗ tổ Hùng Vương, năm 1997.

Con người, gương tận tuỵ, một người thày

Giáo Sư cũng ưa thích chơi cờ và có tính rất cẩn thận. Làm bất cứ việc gì, Giáo Sư cũng thận trọng cân nhắc, tính đến các hậu quả có thể xảy ra. Với những đức tính căn bản của một người theo khoa học, một nhà giáo tận tụy, thật không còn gì hơn khi nghĩ đến câu “Lương Sư Hưng Quốc’’ . Giáo Sư là một người thày, chữ “thày’’ đúng nghĩa trên mọi phương diện.

Qua bao nhiêu năm, Giáo Sư đã đào tạo nhiều thế hệ sinh viên trong lãnh vực vật lý. Nhiều học trò cũ của thày, sau này đã trở thành đồng nghiệp, nhưng vẫn luôn tưởng nhớ đến công ơn tận tụy giảng dạy của thày. Tình thày-trò được thể hiện qua sự tổ chức long trọng lễ mừng sinh nhật năm Giáo Sư 78 tuổi (2000), năm Giáo Sư 85 tuổi (2007), và mới đây, 2012, nhân dịp mừng thượng thọ Giáo Sư 90 tuổi, đơn giản hơn, nhưng ẫn tràn đày lòng quý mến.

Trong số sách chuyên môn đã xuất bản, có bốn quyển Giáo Sư ưng ý nhất là Giao thoa, Nhiễu xạ, Phân cực, và Phổ học. Vào mùa Thu năm 2013, chỉ một khoảng thời gian rất ngắn trước khi lâm bệnh , Giáo Sư đã giao cho người con trai thứ, anh Nguyễn Tấn Đức, cũng là giáo sư về Vật lý đóng thành trọn bộ để làm quà tặng nếu có ai đến thăm vào ngày sinh nhật thứ 91 của Giáo Sư (31-08-2013). Tiếc thay, vào ngày 25-8, một số cựu đồng nghiệp và sinh viên, những những tưởng cũng như năm 2012, đang sửa soạn để đến chúc mừng sinh nhật lần thứ 91 thì nhận được tin gia đình đã phải đưa Giáo Sư vào bịnh viện trong tình trạng sức khoẻ không mấy khả quan…

Và hôm nay

Và hôm nay, 12-01-2014, Giáo Sư đã đã ra đi, trong niềm kính yêu và tiếc thương vô vàn chẳng những của gia đình mà còn của nhiều cựu sinh viên và đồng sự nơi quê nhà cũng như ở hải ngoại.

Paris, 12/01/2014

Cao Xuân An

(*) Các tấm hình trong bài này đều do Giáo sư đã gửi cho tác giả.