Nỗi Niềm
Cứ đều đặn
ngày nào cũng giống nhau, trời chưa sáng để nhìn rõ mặt người, người ta đã thấy
bà cụ đã dọn hàng quà sáng ra bán. Bà bày hàng
trên một khoảng đất trống được tráng xi-măng, nằm lệch một bên hai cạnh cửa sắt
lớn của một ngôi nhà khang trang. Hai cánh cửa này rất ít khi được
mở ra, những người trong ngôi nhà này thường ra vào bằng cánh cửa nhỏ bên cạnh,
và họ đã tốt bụng cho bà ngồi đó.
Hàng quà
sáng của bà bình dân, bản thân của bà bình dân, nên khách hàng cúa bà cũng rất
bình dân, giản dị. Họ là những anh chị công nhân, những em học sinh,
những người làm thuê, những anh đạp xe ba-gác, xích lô v.v. đủ mọi lứa tuổi.
Trong xóm
tôi không ai biết bà từ đâu tới, ban đầu người ta thấy bà gánh hàng đến bán,
một hồi lâu bà lại gánh đi, cứ đều đặn như thế cho đến một thời gian người ta
không thấy bà đi đi, về về nữa. Sáng ra đã thấy bà có mặt và khi bán xong
thì bà thu dọn vào một chổ cư trú nào gần đó. Vào xế chiều khi tiếng kẻng
của ngôi Nhà Thờ nhỏ trong xóm tôi vang lên thì người ta thấy bà chậm rãi, bước
lom khom với chiếc lưng hơi còng trong chiếc áo dài đã cũ nhưng rất tươm tất đi
đến Nhà thờ xem lễ. Người ta không biết bà tên gì, thứ mấy để gọi, nên họ
chỉ gọi đơn giản là "bà cụ Cháo Lòng". Họ gọi thế có lẽ vì bà
nấu cháo rất ngon mà lại rẻ. Khách đến ăn thường xuýt xoa vì mùi thơm của
nồi cháo nóng bốc lên mỗi khi bà mở nắp vung ra để múc cháo vào tộ .
Những miếng thịt lòng đủ loại được xắt mõng bởi bàn tay khéo léo của bà được bày
trên mặt cháo và phủ lên trên là một ít hành xanh, tiêu, ớt ... Từng ngụm
cháo nóng, thơm lừng được thổi phù phù trôi qua cổ họng. Những miếng thịt
ngọt ngào, béo ngậy cộng với hương vị tiêu, ớt cay nóng của cháo đã làm cho
người ta vẫn còn thòm thèm muốn được ăn thêm nữa. Khách hàng của bà ngày
càng nhiều bởi tài nấu cháo của bà.
Về trưa
vắng khách, người ta thường thấy bà ngồi im lặng, tay chống cằm, mắt bà nhìn
tận đâu đâu... Nếu để ý sẽ thấy hình như bà thầm thì nói chuyện một
mình. Bà cụ rất vui vẻ với mọi người nhưng cũng không che dấu được nét
trầm ngâm toát ra trên đôi mắt, trên vẻ mặt của bà. Nhìn những nếp nhăn
trên gương mặt, những đường gân xanh nổi rõ trên hai bàn tay của bà, tôi nghĩ
bà phải có đến cháu gọi bàng bà Cố, chứ chẳng chơi!
Cách nơi bà ngồi bán một đoạn ngắn là trường Mẫu Giáọ. Bà thường cười nói
với những đứa bé di ngang qua để đến trường. Lâu dần những đứa bé này đều
quen thuộc với bà và ngược lạị. Cha mẹ chúng dạy chúng chào trả lại mỗi
khi gặp bà. Nghe tiếng nói xuất phát từ miệng của trẻ nhỏ, lòng bà ấm áp
biết chừng nào. Bà cười tươi khi thấy bóng dáng của chúng...
Tất cả những điều này tôi đều nhận thấy đã làm cho tôi tò mò muốn biết nhiều ít
về bà.
Trong công
việc mưu sinh hàng ngày, một mình bà làm tất cả: bà sửa soạn, nấu nướng, bày
biện, dọn dẹp... Bà làm bằng hai bàn tay, bằng đôi vai để tự nuôi sống
mình sau khi bà đã bán đi gần hết những gì bà đã tậu được hầu tìm mọi cách cho
người em trai của bà được ra nước ngoài. Giờ đây chỉ còn lại bà lẻ
loi trong cuộc đời, cô độc trong cuộc sống, cô đơn trong tâm hồn vì đã lâu, rất
lâu rồi bà không còn biết tin tức gì về người em của bà nữa. Bà nói với
tôi nhưng đôi mắt của bà nhìn ra xa lắm, dường như bà thấy lại rất rõ hình ảnh
của bà lúc mười chín tuổi, tay dắt đứa em trai mười ba tuổi, tay kia là một
chiếc va-li nhỏ. Hai chị em chạy vội vàng, vấp ngã, chen lấn, xô đẩy với
đám đông để kịp bước xuống chiếc tàu thủy lớn đi vào miền Nam vào những năm xưa
ấy. Ông bà cụ thân sinh đã mất khi bà mười sáu tuổi. Bà đã phải
làm thuê, làm mướn, chịu cực khổ để nuôi hai chi em. Bà thương em vì sớm
mồ côi cha mẹ chỉ còn biết nương nhờ vào bà là người chị duy nhất mà thôi.
Vào đến miền Nam, bà làm tất cả những công việc gì có thể làm: làm thuê, làm
mướn, phụ hồ, buôn bán ngược xuôi, bà không quản ngại nhọc nhằn, miễn sao có
thể nuôi sống được hai chị em, và nhất là bà cố gắng cho em bà được đến trường
học ...!
Tôi nhìn
vào gương mặt bà để thử hình dung nét mặt của bà khi còn trẻ ra sao. Tôi có cảm
tưởng bà là một người mẹ đúng hơn là một người chi.. Giọng nói chậm
rãi, lời nói mộc mạc hiền từ của bà khiến người nghe cảm nhận được niềm hạnh
phúc, vui sướng của bà khi thấy đứa em trai nhỏ ngày nào mỗi ngày học càng tiến
tới. Em bà học càng cao thì đôi vai của bà càng nặng. Nhưng bà
không ngại gì cả vì tình thương của bà chan hòa lên hết mọi sự. Bà
sẵn sàng hy sinh những gì có được để cho tương lai người em không phải chịu
gian nan, khổ cực như bà.
Hàng quà
của bà lúc nào cũng hết sớm. Bà thu dọn mọi thứ rồi để vào một góc
nhà. Gọi là nhà chứ thực sự đó chỉ là một chái nhỏ được xây thêm bên hông
của một căn nhà lớn. Căn chái này có diện tích vừa đủ để kê một cái
giường nhỏ, một tủ đựng quần áo, một cái bàn con, thấp. Trên vách tường người
ta thấy có bức hình Đức Chúa Jesus, và bên cạnh đó có treo một xâu chuỗi
hạt. Đó là nhà của bà. Bà đã có một nơi ở cố định và yên ổn sau một
thời gian dài ở tạm rày đây, mai đó. Sự tử tế, tốt bụng vẫn có trong cuộc
đời này, nên bà đã được người ta để cho bà cư ngụ trong căn chái nhỏ này mà
không đòi hỏi một điều kiện nào. Từ lúc ấy bà không còn phải gánh gồng đi
về xa xôi nữa.
... Xa xôi, phải! xa lắm rồi bà không còn nhớ rằng tuổi xuân thì của mình đã đi
qua hồi nào không hay biết. Bà không hề biết có người đàn ông nào yêu
thương bà không, cũng như bà không có thì giờ để trái tim rung động trước ánh
mắt của ai đó khi mà hoàn cảnh bơ vơ, nghèo khó của chị em bà nơi miền đất mới
xa lạ này vẫn còn là gánh nặng trên vai. Bà vừa hỏi chuyện tôi những câu
thăm hỏi thông thường, vừa đưa hai bàn tay lên sửa lại cái khăn quấn trên
đầu. Tóc bà bạc gần hết nhưng còn rất dày. Mái tóc này - tôi
nghĩ - cho đến nay chưa có một bàn tay trìu mến nào vuốt ve lên nó. Mái
tóc này, vẫn còn nguyên vẹn sự trinh trắng, trong sáng của một người "con
gái" đã già. Từng sợi tóc già nua ấy đã được nuôi nấng bởi một tình
thương bao la, một trái tim hiền hậu của bà.
Rồi người chị mười chín tuổi ngày xưa đó bây giờ đã đến lúc thay thế mẹ cha để
cưới vợ cho người em trai ngày nào. Bà rất sung sướng khi em của bà thành
gia thất. Bà xem đó là sự đền đáp công lao của mẹ cha. Bà đã dành
dụm chắt chiu để cho em bà có được ngày nay: học thành tài và lập gia
đình. Bà cũng chẳng bận tâm để nghĩ rằng hai chi em bà đã bắt đầu xa cách
một chút rồi. Bà chẳng cần nghĩ suy xa xôi. Bà bằng lòng với tất cả
những gì đã làm được cho đến lúc này.
"Bà
Cụ Cháo Lòng" đã cư ngụ ở xóm tôi khá lâu, nhưng hình như chưa ai thấy có
người nào đến thăm bà. Buổi sáng bà dọn hàng ra bán, buổi chiều thì bà đi
xem lễ ở nhà thờ. Cứ như thế đều đặn ngày qua ngày. Bà đọc kinh
trong nhà thờ, và cầu nguyện với các đấng thiêng liêng mỗi ngày cho người em
của bà được bình an, mạnh khoẻ ở nơi chốn xa xôi ấy, mặc dù bà không biết người
em của bà bây giờ ra sao, và có còn nhớ gì về người chị này không. Bà kể
lại sự vui mừng xiết bao khi biết tin người em đã đi đến nơi yên ổn. Bà
tạ ơn đến các Thánh, Thần đã phù hộ cho hai chi em bà. Bà vui sướng nhiều
đến nỗi không nghĩ đến rằng hai chi em từ nay đã cách xa muôn trùng diệu vợi...
Tôi cố tìm trong giọng nói, trong ánh mắt của bà sự trách móc, than oán về
người em... nhưng không! Bà kể chuyện của mình giống như đang thuật lại
một câu chuyện nào đó của ai kia - giọng nói của bà chậm rãi, đều đều, không có
niềm vui cũng không pha lẫn sự buồn phiền. Bà đã hiểu và mặc nhiên chấp
nhận số phận của cuộc đời bà là như thế khi người em trai chỉ gửi về cho bà
trước sau chỉ có ba lần thư thăm hỏi... rồi biệt tăm, biêt tích!! Tình
thương của bà đã thôi thúc bà tìm đủ mọi cách để thăm hỏi tin tức của em mình:
bệnh tật, còn sống hay đã chết! Dường như có nước mắt vừa ứa ra trong đôi
mắt của bà khi kể cho tôi về lời nhắn gửi qua người quen của em trai bà rằng :
Bà hãy tự lo cho bản thân bà đi ... đừng chờ trông gì nơi ông ấy. Ông ấy
bận rộn lắm, không có thì giờ để biên thư cho bà nữa đâu...
Tôi sợ mình sẽ khóc nên vội nhìn sang hướng khác. Tôi bồi hồi, có cảm giác như
có vật gì chấn ngang cổ họng mình... , nhưng bà thì không, không có giọt lệ nào
rơi xuống đôi má già nua ấy...! Bà quen rồi, bà không trông chờ tin
thơ của em bà nữa sau vài lần gửi thư đi mà không bao giờ được hồi đáp.
Bà chấp nhận sự chối bỏ tình thương ruột thịt của người em, một sự thực bất
hạnh không thể biện hộ được sau một thời gian rất dài đã cho bà sự khẳng định
này.
"Bà
Cụ Cháo Lòng" vẫn bày hàng, dọn hàng thui thủi một mình, vẫn có lúc ngồi
yên lặng nhìn về đâu đó trên ngọn lá, trên khoảng không, thì thầm một
mình. Vẫn như thế... chỉ có một mình.
Những tô cháo lòng nóng hổi, thơm ngon
của bà đã làm những khách hàng nhớ tiếc vì từ nay đã vắng bóng hàng quà sáng
của bà trên khoảng đất trống tráng xi-măng quen thuộc ấy vì một sớm mai kia bà
đã yên bình đi về miền vĩnh cữu. Bà ngủ giấc ngàn thu rất thư thái, trên
tay bà vẫn còn cầm xâu chuỗi hạt. Tôi có cảm tưởng như bà đã biết trước sự ra
đi của mình vậy!
Đưa tiễn
bà có rất nhiều tấm lòng tử tế trong xóm. Bà được đưa vào Nhà thờ lần
cuối cùng. Không có một vành khăn tang nào đi sau bà!! Thân xác bà
đã yên nghỉ. Tâm hồn bà cũng đã yên nghỉ. Nơi bà tất cả đều là sự bình an
vì trái tim của bà chứa chan tình thương yêu, lòng tha thứ, không hề oán trách,
buồn phiền.
"Nước mắt bao giờ cũng chảy xuống !!"
Tôi cầu
nguyện cho linh hồn bà - một "người mẹ" trong một người chị - mãi mãi
bình yên.
|