Chức Năng Gan Thử Nghiệm Bất Bình Thường Nghĩa Là Gì ?
(What Do Abnormal Liver Function Tests Really Mean?)
Cuong Trinh, M.D., Giang Nguyễn Trịnh, R.Ph, D.Ph.
Một
thử thách thông thường trong ngành chữa trị tổng quát là xác định ý
nghĩa của mức độ chức năng gan hơi cao và phân biệt bệnh gan nặng với
những trường hợp có kết quả dương giả do bệnh của một cơ quan khác hay
do một bệnh gan không đáng kể như gan có nhiều mỡ.
Mức độ aminotransferasesAminotransferases,
aspartate aminotransferase (AST) và alanine aminotransferase (ALT) là
hai chỉ định hao tổn gan được xử dụng nhiều nhất và xác nhận sự hoại tử
gan. Cả hai thường hiện diện trong huyết thanh ở mức độ thấp, dưới
30-40 U/L. Khi sự gia tăng của mức aminotransferases kéo dài thì cần
phải tìm kiếm cho ra nguyên nhân. Sự
gia tăng mức độ aminotransferase cần phải được xác nhận bằng cách thử
nghiệm lại. Việc này rất quan trọng vì trong một vài nhóm (ví dụ những
người hiến máu), khoảng 1/3 số bệnh nhân với mức độ AST tăng nhẹ sẽ có
kết quả bình thường khi thử lại. Sau đó ta cần phải hỏi kỹ bệnh sử gia
đình và khám bệnh tổng quát. Khi hỏi bệnh sử ta cần chú trọng tới những
thuốc dùng, uống rượu, sử dụng những thuốc ngoài quầy hay thuốc bất hợp
pháp, trường hợp bị vàng da hay đau gan, đau bụng, bệnh sử gia đình về
gan hay sơ gan, những bệnh về tình dục, những bệnh như ung thư, tiểu
đường, bệnh mập phì và xút cân mau chóng. Một bệnh nhân đau gan vì uống
rượu có thể có bệnh sử gia đình về gan hay sơ gan, bệnh nhiễm sắc tố
sắt trong máu (hemochromatosis) , bệnh Wilson, hay bệnh thiếu alpha
1-antitrypsin. Nếu
mức độ ALT và AST dưới 2 lần giới hạn cao nhất của bình thuờng và không
có bệnh gan mạn tính nào được phát giác, ta có thể dò tìm bệnh theo chỉ
dẫn của hai tường trình về thử nghiệm được thực hiện gần đây nhất.
Nghiên cứu thử nghiệm thứ nhất đề nghị điều trị lâm sàng kỹ lưỡng ngay
thì đỡ tốn kém với những bệnh nhân không có triệu chứng và kết quả thử
nghiệm âm về bệnh do siêu vi, bệnh chuyển hóa, bệnh cơ quan miễn nhiễm
nhưng kết quả aminotransferase cao môt cách kinh niên. Thử nghiệm thứ
nhì theo dõi 36 bệnh nhân có mức độ aminotransferase cao (ít nhất 50%
trên bình thường) của ALT, AST hay ALP (alkaline phosphatase) . Những
bệnh nhân có chứng cớ rõ ràng đã mắc bệnh gan đặc biệt được loại ra.
Tất cả bệnh nhân được sinh thiết gan nhưng chỉ có 2 người cần phải thay
đổi cách chữa trị sau khi có kết quả. Những
hướng dẫn hiện tại nhấn mạnh rằng nếu mức độ ALT và AST tiếp tục cao
hơn hai lần bình thường, sinh thiết gan phải được thực hiện. Dù rằng
kết quả của sinh thiết chỉ đưa tới bệnh gan có mỡ, nó cũng làm cho y sĩ
và bệnh nhân được yên tâm.
Mức độ cao giúp việc chẩn bệnhĐối với
một bệnh nhân không có triệu chứng và gia tăng ALT hay AST riêng rẽ,
định bệnh tùy thuộc vào độ cao. Dù rằng chưa có sự thoả thuận về định
nghĩa thế nào là cao nhẹ, trung bình hay nhiều, một định nghĩa đã được
đề nghị. Gia tăng nhẹ được thấy
trong bệnh gan không do rượu mà do mỡ, gồm có gan có mỡ thông thuờng và
không do rượu gây nên (nonalcoholic steatohepatitis) , và gan viêm do
siêu vi mạn tính. Gia tăng trung bình được thấy trong gan viêm do siêu
vi mạn tính, gan viêm vì rượu và một số bệnh gan khác, có sơ gan hay
không. Gia tăng cao được thấy trong gan viêm nặng cấp tính, hoại tử gan
vì ngộ độc, vì thuốc, trường hợp kích ngất, hay thiếu máu trong gan. Mức độ rất cao (trên
2000-3000m U/L) thường được thấy trong truờng hợp uống acetaminophen
quá liều hay môt người nghiện rượu uống quá nhiều aceraminophen.
Biểu hiệu của nồng độ diếu tố gan tăng cao
Thử nghiệm |
Bình thường |
Tăng nhẹ |
Tăng trung bình |
Tăng nhiều |
AST |
11-32 |
< 2-3 |
2-3 tới 20 |
> 20 |
ALT |
3-30 |
< 2-3 |
2-3 tới 20 |
> 20 |
ALP |
35-105 |
< 1.5-2 |
1.5-2 tới 5 |
> 5 |
GGT |
2-65 |
< 2-3 |
2-3 tới 10 |
> 10 | AST= Aspartate aminotransferase ALT= Alanine aminotransferase ALP= Alkaline phosphatase GGT= Gamma-glutamyl transferase
Những nguyên nhân tăng mức độ aminotransferasesNhững
nguyên nhân thông thường tăng diếu tố gan gồm có gan chứa mỡ (hepatic
steatosis or fatty infiltration of the liver), tổn thương gan do rượu
gây nên, gan viêm do siêu vi B và C, nhiễm sắc tố sắt (hemochromatosis)
và gan viêm tự miễn nhiễm (autoimmune hepatitis).
Những thử nghiệm máu và những nguyên nhân gây mức độ aminotransferase cao
Thử nghiệm đầu tiên
Kháng thể gan viêm C (hepatitis C antibody)
trong huyết thanh để tìm sự hiện diện của kháng thể gan viêm C nhiễm
trùng mạn tính.
Kháng sinh bề mặt gan viêm loại
B (HBsAg), kháng thể bề mặt (anti-HBs), và kháng thể lõi (anti-HBc) tìm
gan viêm loại B kinh niên với sự hiện diện của kháng sinh bề mặt và
kháng thể lõi (dương).
Lượng sắt trong huyết thanh, và
khả năng liên kết sắt toàn phần cho biết có bị nhiễm chứng nhiễm sắc tố
sắt trong máu (hemochromatosis) không.
Lượng ceruloplasmin trong huyết thanh: luợng ceruloplasmin giảm chứng tỏ bệnh Wilson.
Protein điện di trong huyết
thanh (serum protein electrophoresis) : gia tăng polyclonal
immunoglobulins, antinuclear antibodies, smooth muscle antibodies chứng
tỏ bệnh gan viêm tự miễn nhiễm (autoimmune hepatitis). Sự giảm băng
alpha globulins chứng tỏ sự thiếu hụt alpha 1-antitrypsin.
Những thử nghiệm khác nếu thử nghiệm trên có kết quả âm
Thử nghiệm phản ứng dây đảo
ngược sao chép polymerase (reverse transcriptase polymerase) tìm hiện
diện của RNA vi rút gan viêm loại C.
Phân loại alpha 1-antitrypsin nếu thấy có sự hiện diện của phenotip ZZ thì chứng tỏ có sự thiếu hụt alpha 1-antitrypsin.
Antiendomysial antibodies,
antigliadin, và kháng thể transglutaminase trong mô chứng tỏ sự hiện
diện bệnh viêm ruột loét (celiac sprue).
Creatine kinase và aldolase: gia tăng diếu tố chứng tỏ bệnh thuộc cơ vân.
Một số chuyên gia thấy có
lợi khi làm tất cả thử nghiệm trong nhóm đầu, ngoại trừ truờng hợp có
nguyên nhân rõ rệt như nghiện rượu.
Môt số khác thích áp dụng lối thứ tự như:
Hõi cặn kẽ bệnh nhân về sự uống rượu, hay hỏi thân nhân nếu nghi ngờ bệnh nhân không nói thật.
Tìm kiếm những yêu tố gây bệnh gan có mỡ không do rượu gây nên (nonalcoholic liver disease).
Thử nghiệm tìm kháng thể gan viêm loại C.
Thử nghiệm tìm gan viêm loại B.
Tìm kiếm bệnh nhiễm sắc tố sắt.
Tìm những nguyên do hiếm hơn
như thiếu hụt alpha 1-antitrypsin, bệnh Wilson, và đôi khi bệnh viêm
ruột loét miệng (celiac sprue).
Bệnh gan do rượu gây nên
Bệnh này là bệnh thông thường
nhất tại Hoa Kỳ. Y sĩ cần phải nghĩ tới bệnh này khi nguời bệnh uống
7-8 g rượu mỗi ngày (khoảng 5 ly). Đàn bà có thể mắc bệnh khi uống ít
hơn (2 ly mỗi ngày). Định bệnh căn cứ trên một tỷ lệ AST/ALT 2:1. Ít
khi thấy mức độ AST cao hơn 8 lần bình thuờng và ALT cao hơn 5 lần bình
thường trong bệnh nhân nghiện rượu. Mức độ ALT có thể bình thường ngay
cả đối với bệnh nhân mắc bệnh gan nặng do rượu gây nên.
Đo GGT (gamma glutamyl transferase) cũng có ích.
Mức độ GGT cao hơn 2 lần
bình thuờng cho bệnh nhân có tỷ lệ AST/ALT bằng 2:1 cho ta biết là bệnh
nhân nghiện rượu. Tuy nhiên vì GGT thiếu tính đặc thù nên nó không thể
dùng riêng rẽ được.
Dược phẩm, thảo dược và những chất khác
Tổn thương gan do dược phẩm
và các chất hóa học khác chỉ gây khoảng từ 1-2% những bệnh gan mạn
tính/kinh niên thôi. Những dược phẩm thông dụng có thể gây tổn thuơng
gan gồm có trụ sinh, thuốc trị kinh phong, chất áp chế
hydroxymethylglutar yl-CoA reductase, NSAIDs và thuốc trị bệnh lao.
Cách dễ nhất để xác định xem
một dược phẩm có gây nên sự tăng mức aminotransferase hay không là
ngưng thuốc để xem hàm lượng diếu tố có trở lại bình thường hay không.
Nếu thuốc trên cần thiết cho bệnh nhân và không có thuốc khác để thay
thế, ta cần phải phân tích lợi hại và xét xem có cần phải tiếp tục
thuốc dù rằng kết quả thử nghiệm cho biết có bất thường.
Gan viêm do siêu vi
Nguy cơ mắc bệnh gan viêm do
siêu vi C (HCV) cao nhất đối với bệnh nhân đã được truyền máu, chích
thuốc vào tĩnh mạch, sử dụng cocaine, xâm mình, chọc lỗ thủng trên thân
mình, và bừa bãi về tình dục.
Tỷ lệ bệnh gan viêm do siêu
vi C ở Mỹ được ước chừng khoảng 3.9 triệu (1.8% dân số) phần lớn số đó
không biết là mình mắc bệnh (theo tài liệu trong báo NEJM 1999; 341:
556-62). Trong đa số bệnh nhân mắc bệnh gan viêm do siêu vi C, mức độ
ALT từ 1.5 tới 2 lần mức độ AST, nhưng nếu bệnh sơ gan (cirrhosis) phát
ra trong gan viêm do siêu vi loại B hay C, tỷ lệ AST/ALT trở lại bình
thường hay mức AST có thể hơi cao hơn một chút.
Thử nghiệm đầu tiên để định
bệnh HCV là thử nghiệm miễn nhiễm diếu tố (enzyme immuno assay/EIA) về
kháng thể đối với HCV, có một mức nhạy cảm (sensitivity) từ 92% tới 97%
tùy loại xét nghiệm. Một kết quả thử nghiệm dương trong một bệnh nhân
có yếu tố nguy cơ mắc bệnh đủ để định bệnh, nhưng chẩn bệnh thường được
xác định bằng phản ứng đảo ngược giây chuyền reverse transcriptase
polymerase để đo mức độ HCV RNA. Một thử nghiêm có kết quả dương cần
phải được tiếp tục bằng sinh thiết gan để ước lượng mức độ tổn thương
gan. Những bệnh nhân gan viêm loại C kinh niên và có bằng chứng bị sơ
gan cần được chữa trị.
Những thử nghiệm đầu về gan
viêm do siêu vi B (HBV) gồm có HBV kháng nguyên bề mặt (HBs Ag), kháng
thể HBV bề mặt (HBs antibody), và kháng thể lõi B (HBc antibody).
Một kết quả dương (+) cho
kháng thể bề mặt HBV (anti HBs antibody) và kháng thể lõi (anti HBc
antibody) chứng tỏ cơ thể đã được miễn nhiễm và cần phải tìm kiếm lý do
khác đã gây gia tăng diếu tố.
Môt kết quả dương (+) cho
kháng nguyên bề mặt HBV (HBs Ag) và kháng thể lõi (HBc antibody) chứng
tỏ sự hiện diện cuả bệnh gan viêm loại B.
Những thử nghiệm để xác định
xem siêu vi có sao chép (replication) hay không, gồm có sự hiện diện
trong huyết thanh của kháng nguyên e (HBe Ag), kháng thể e (Hbe
antibody) và lượng HBV DNA cần được thực hiện. Đối với những bệnh nhân
mà mức độ HBV DNA cao hơn 10 copies/ml và có ALT cao, thiết sinh gan và
chữa trị bằng thuốc kháng siêu vi (antiviral) cần được bắt đầu.
Gan viêm vì tự miễn nhiễm (Autoimmune hepatitis)
Bệnh thường xảy ra cho đàn bà
tuổi trẻ tới trung niên với tỷ lệ đàn bà đàn ông là từ 4 so với 1. Điện
di protein trong huyết thanh (serum protein electrophoresis) là một
cách thử nghiệm tốt. Trên 80% bênh nhân mắc bệnh này có tăng
gammaglobulin trong huyết thanh, một mức độ polyclonal gammaglobulin
cao hơn hai lần bình thường giúp định bệnh. Mặc dù những thử nghiêm
kháng thể kháng nhân (antinuclear antibodies), kháng thể kháng cơ trơn
(antibodies against smooth muscle) và kháng thể hạt nhỏ gan-thận
(microsomal antibodies kidney-liver) thường được sử dụng, chúng có thể
không hiện diện trong bệnh gan viêm tự miễn nhiễm. Sinh thiết gan cần
được thực hiện.
Bệnh gan chứa nhiều mỡ không do rượu gây nên (Nonalcoholic steatohepatosis - NASH)
Tỷ lệ bệnh gan chứa nhiều mỡ
không do rượu gây nên được ước chừng cao tới 20% trong dân chúng tại
Hoa Kỳ. Đối với NASH tỷ lệ bệnh được ước lượng khoảng 3%. Trái lại với
bệnh nhân mắc bệnh gan do rượu gây nên, bệnh nhân bị NASH (nếu không bị
sơ gan) thuờng có tỷ lệ AST/ALT dưới 1:1.
Người ta thường cho rằng
bệnh này hay xảy ra cho đàn bà trung niên, bị mập phì hay mắc bệnh tiểu
đường, nhưng kinh nghiêm gần đây cho thấy đàn ông cũng có thể mắc bệnh
và mập phì hay bệnh tiểu đường có thể không hiện diện. Ngoài ra duợc
phẩm như prednisone, methotrexate, thuốc estrogens, amiodarone,
tamoxifen, nifedipine và diltiazem cũng có thể gây nên bệnh. Nó còn có
thể là kết quả của sự tiếp xúc với các chất làm tan hữu cơ, tiếp chất
dinh dưỡng vào tĩnh mạch lâu ngày và một số bệnh về gien trầm trọng.
Đối với một vài bệnh nhân bị
NASH, bệnh có thể tiến triển tới sơ gan, vì vậy sự tích cực để định
bệnh còn trong vòng bàn cãi. Siêu âm gan hay đo CT scan có thể giúp xác
định bệnh nhưng hiện nay chưa có cách chữa trị. Sinh tố E, ursidiol và
thuốc để trị tiểu đường loại 2 như pioglitazone, rosiglitazone và
metformin đang được thử nghiệm để trị bệnh. Cách chữa trị căn bản là
xuống cân, trị bệnh tiểu đường và trị chứng lipid cao trong máu.
Những nguyên nhân tăng aminotransferase hiếm hơn
Nhiễm sắc tố sắt trong máu
Bệnh này xảy ra cho 1 trên 300 người trong dân chúng (theo bài viết trong báo Ann Intern Med,
1998; 129: 925-31), thuờng được xác định bởi một mức độ ferritin cao,
một mức độï bảo hòa sắt cao trong huyết thanh (high serum iron
saturation) và sự hiện diện của hai copies của gen HFE. Đa số bệnh nhân
có triệu chứng tuổi từ 40 tới 50, mắc chứng ngủ lịm (lethargy), đau
nhức khớp và giảm ham muốn tình dục nhưng phần đông bệnh đều không có
triệu chứng gì cả.
Vì biến chứng có thể nặng
nếu bệnh không được chữa trị sớm, ta cần luôn luôn nghĩ tới bệnh này
khi mức độ diếu tố gan chỉ hơi cao.
Bệnh Wilson
Môt sự hỗn loạn bài tiết chất
đồng của mật, bệnh Wilson có thể làm tăng aminotransferase cho bệnh
nhân không có triệu chứng gì khác của bệnh. Bệnh bộc phát giữa 5 và 25
tuổi nhưng sự định bệnh có thể tới tuổi 40. Nó xảy ra cho 1 trong
30,000 người, bệnh này có thể xác định khi phát hiện vòng Kayser
Fleischer, mức độ ceruloplasmin thấp trong huyết thanh, sự bài tiết
đồng nhiều trong nước tiểu và mức độ đồng trong gan cao.
Bệnh thiếu hụt alpha 1-antitrypsin
Bệnh do gien thuờng thấy ở người
da trắng, nó là một bệnh biến thể không hiếm trong gan. Một mức độ
alpha 1-antitrypsin thấp, tới 20% của bình thuờng, hoặc giảm alpha
1-globulin trên điện di, hay cả hai giúp định bệnh. Để xác định ta cần
thử biểu hình protease áp chế (protease inhibitor phenotype) vì mức độ
alpha 1-antitrypsin có thể tăng trong trường hợp viêm.
Bệnh celiac sprue ẩn
Bệnh này đuợc định bệnh bằng
cách đo kháng thể endomysial, antigliadin, và transglutaminase trong
mô. Những kết quả cần được xét nếu bệnh nhân bị xút cân, đau bụng, đầy
hơi và có mỡ trong phân. Trong một cuộc nghiên cứu gần đây, bệnh celiac
sprue ẩn là nguyên nhân của sự tăng mạn tính aminotransferase cho 13
trong số 140 nguời bệnh không có triệu chứng được giới thiệu tới một
chẩn y viện chuyên trị bệnh gan. (Hematology 1999; 29: 654-57).
Nguyên nhân gia tăng ALP
Gia tăng mức độ Alkaline
Phosphatase (ALP) được nhận thấy trong bệnh nghẹt ống mật, bệnh thâm
nhập gan như ung thư gan, bệnh gan do dược phẩm gây nên và bệnh sơ gan
mật nguyên thủy (primary biliary cirrhosis). ALP có thể gia tăng ít
trong ba tháng chót của thai nghén và sự mọc xương sinh lý và nó không
hiếm đối với những người trên 50 tuổi khỏe mạnh. Đo mức độ 5-
nucleotidase và GGT thường tăng cùng với ALP nếu nguyên nhân là do gan
cũng giúp tìm nguồn gốc của sự tăng ALP.
Nguyên nhân tăng GGT
Gia tăng GGT chứng tỏ nguyên
nhân do nghẹt ống mật hay do tổn thương tế bào gan. Nếu cả hai GGT và
ALP đều tăng, nhất là ALP thì nguyên nhân vì ống mật gan coi như chắc
chắn. GGT tăng mà ALP không tăng thường do gan viêm vì rượu. Khi cả hai
ALP và GGT tăng đều từ gan ra đánh dấu sự di căn ung thư tới gan, có
thể xác định bằng chụp quang tuyến gan.
Nguyên nhân tăng bilirubin
Một sự tăng conjugated bilirubin
có thể do siêu vi, hóa chất, rượu hay nghẹt ống dẫn mật hay sơ gan. Hội
chứng Gilbert là nguyên nhân tăng unconjugated bilirubin trong khi các
thử nghiệm gan khác bình thường thường được thấy trong 5% dân số. Sự
tan huyết (hemolysis) có thể phân biệt được với hội chứng Gilbert bằng
cách đếm huyết cầu tổng quát (CBC), đếm reticulocyte và phết máu ngọai
biên. Trong bệnh tan huyết (hemolysis), số reticulocyte sẽ cao và phết
máu ngoại biên sẽ bất thường trong khi trong hội chứng Gilbert chúng sẽ
bình thường.
Khi nào chụp hình gan và khi nào làm sinh thiết gan
Chụp hình gan khi bệnh nhân khi AST và ALT tiếp tục cao trong khi các thử nghiệm khác bình thường.
Chụp hình gan rất có ích nếu
ALP hay GGT cao. Ta có thể thấy nghẹt ống dẫn mật trong gan (bướu) hay
ngoài gan (bướu hay sạn cấn lên ống dẫn mật).
Sinh thiết gan dành cho bệnh
nhân có mức độ AST hay ALT cao 2 lần hơn bình thường trong khi các thử
nghiệm và chụp hình đều bình thường.
14 June 2004
1. Das A, Post AB. Should liver
biopsy be done in asymptomatic patients with chronically elevated
transaminase? A cost-utility analysis. Gastroenterology. 1998; 114:A9
2. Sorbi D, Magill DB,
Thistle JL, et al. An assessment of the role of liver biopsies in
asymptomatic patients with chronic liver test abnormalities. Hepatologỵ 1999; 30:477A
oOo
THUỐC TÂY CÓ NGUY CƠ GÂY ĐỘC CHO GAN CỦA BẠN
|
Có nhiều mức độ tổn thương gan
do tác dụng phụ của thuốc . Nhiều thử nghiệm lâm sàng cho thấy rằng có
nhiều tổn thương gan do thuốc điều trị gây ra . |
 |
Vị trí gan trong cơ thể | |
Có nhiều mức độ tổn thương gan do tác dụng
phụ của thuốc . Nhiều thử nghiệm lâm sàng cho thấy rằng có nhiều tổn
thương gan do thuốc điều trị gây ra . Những thuốc thường gây tổn thương
gan : thuốc điều trị lao , thuốc trị tiểu đường , thuốc điều trị nấm ,
……..Có những mối liên quan không chỉ do tương tác thuốc với thuốc mà
còn do thuốc với tình trạng bệnh của bệnh nhân . Những bệnh nhân có
bệnh gan mãn tính sẵn dễ bị ngộ độc thuốc hơn bệnh nhân gan bình thường
. Có bằng chứng cho thấy rằng có sự tương tác giữa thuốc và bệnh ở bệnh
nhân đồng nhiễm HBV và HIV hay HCV và HIV.
II. Phạm vi ngộ độc gan do thuốc gây ra:
Tổn thương gan do thuốc gây ra từ sự thay
đổi sinh hóa tối thiểu , không đặc hiệu đến viêm gan cấp , viêm gan mãn
, suy gan cấp , bệnh đường mật kéo dài , ngay cả xơ gan và ung thư gan.
Hơn nữa thuốc có thể gây ra gan thấm mỡ , u hạt gan , trong một số
trường hợp xảy ra bệnh phospholipid , hay hội chứng Budd-Chiari.
*Những thuốc gây ngộ độc gan:
Thuốc |
Điều trị |
Gây bệnh gan |
Acetaminophen |
Giảm đau,hạ sốt |
Viêm gan |
Anabolic steroids |
Giúp tăng trưởng cơ |
U gan |
Chlorpromozine (Thorazine) |
Bệnh tâm thần |
Giả -xơ gan mật nguyên phát |
Cimetidine(Tagamet) |
Bệnh viêm lóet dạ dày |
Viêm gan cấp và bệnh đường mật |
Ciprofloxin |
Kháng sinh |
Viêm gan mật |
Clindamycin( Cleocin) |
Kháng sinh |
Viêm gan cấp |
Cocaine |
Tâm thần |
Viêm gan cấp |
Corticosteroids( Prednisone) |
Kháng viêm |
Gan thấm mỡ |
Coumadin |
Bệnh máu |
Viêm gan cấp và bệnh đường mật |
Cyclosporine A |
Ức chế miễn dịch |
Bệnh đường mật |
Diazepam (Valium) |
Thuốc ngủ |
Viêm gan cấp và bệnh đường mật |
Erythromycin estolate |
Kháng sinh |
Bệnh đường mật |
Estrogens và androgens |
Kích thích tố sinh dục |
U gan |
Halothan |
Gây mê |
Viêm gan cấp và mãn |
Ibuprofen |
Giảm đau |
Viêm gan cấp |
INH |
Bệnh lao |
Viêm gan |
Methotrexate |
Viêm khớp |
Xơ gan |
Methyldopa(Aldomet) |
Cao huyết áp |
Viêm gan tự miễn |
Metronidazole (Flagyl) |
Kháng sinh |
Viêm gan cấp |
Naproxen(Anaprox) |
Giảm đau |
Viêm gan cấp và bệnh đường mật |
Omeprzole |
Lóet dạ dày |
Viêm gan |
Thuốc ngừa thai uống |
Ngừa thai |
U gan |
Phenytoin |
Chống co thắt |
Viêm gan cấp |
Rosiglitazone( Avandia) |
Tiểu đường |
Suy gan |
Salicylates( Aspirin) |
Giảm đau |
Viêm gan cấp ,mãn |
Tamoxifen |
Ung thư vú |
Viêm gan cấp |
Tetracycline |
Kháng sinh |
Gan thấm mỡ |
1.Thông số tiên đóan tổn thương gan do ngộ độc thuốc
Có vài cách tiên đóan bệnh gan mãn và cấp
tính trở nên có biểu hiện lâm sàng . Dấu hiệu và triệu chứng của bệnh
gan do thuốc thường không đặc hiệu . Tổn thương gan do thuốc có thể chỉ
biểu hiện bằng một hoặc nhiều hơn sự bất thường của chỉ số sinh hóa .
Phần lớn tăng men gan do thuốc không triệu chứng và không tiến triển .
Có ít bệnh nhân suy gan đột ngột đưa đến tử vong hay phải ghép gan .
Phần lớn bệnh nhân có triệu chứng giống viêm gan cấp , viêm gan mãn hay
bệnh đường mật . Sự phát triển của vàng da thấy được trên lâm sàng
(bilirubin >3mg/dl) kèm theo sự tăng men gan cho tiên đóan tổn
thương gan trầm trọng .
2.Phân lọai ngộ độc gan do thuốc:
Tổn thương gan do thuốc có thể phân lọai:
tổn thương tế bào gan, tổn thương đường mật , hoặc tổn thương phối hợp
cả hai. Có nhiều lọai thuốc không chỉ gây tổn thương đơn độc mà gây tổn
thương phối hợp. Những thuốc gây tổn thương gan có đặc điểm cho biết
thời gian khởi phát bệnh , tần số , tiến triển bệnh , lọai ngộ độc gan
. Tổn thương gan do thuốc thường có đặc điểm giống bệnh lý tự miễn.
III. Chẩn đóan tổn thương gan do thuốc:
Chẩn đóan tổn thương gan do một lọai thuốc
nào đó gây ra thường dựa trên hòan cảnh bệnh và sự nghi ngờ của thầy
thuốc nhận thấy rằng thời điểm khởi phát tổn thương gan liên quan đến
lọai thuốc đang sử dụng mà thuốc này có khả năng gây độc cho gan như đã
nói ở trên. Giải quyết biểu hiện của tổn thương gan thường là ngưng
dùng thuốc gây độc gan. Đánh giá mô học của gan để biết mức độ tổn
thương gan và tổn thương lọai gì , không phải để biết tổn thương do
thuốc gì.
Chẩn đóan thường dựa vào:
_Đặc điểm khởi phát bệnh
_Vàng da bất ngờ
_Sinh thiết gan để biết mức độ tổn thương gan
_Men ALT tăng hơn gấp 3 lần bình thường
_Tuổi , phái tính , thuốc dùng , yếu tố p 450
IV. Yếu tố ảnh hưởng tính nhạy cảm đối với bệnh gan do thuốc:
_Tuổi
_Phái tính
_Liều lượng và thời gian dùng thuốc
_Chế độ dinh dưỡng
_Sự sử dụng cùng lúc nhiều thuốc
_Uống rượu
_Dạng trình bày của thuốc
_yếu tố di truyền
Có một số thuốc tăng nguy cơ gây độc tính
đặc biệt đối với người hơn 50 tuổi. Một số tác nhân : valproic acid ,
Erythromycin thường gây độc cho gan ở trẻ em, valproic acid thường gây
độc ở trẻ em có rối lọan về di truyền ti lạp thẻ. Phenytoin hiếm khi
gây độc đặc biệt cho gan trừ khi dùng hơn 6 tuần. Đa số thuốc, nữ
thường có ảnh hưởng độc cho gan nhiều hơn là nam.
V. Những thuốc đặc biệt mà bác sĩ chuyên khoa gan nên chú ý đặc biệt:
1.Acetaminophen :
Thuốc gây độc cho gan tùy theo liều sử
dụng. Khi điều trị cần chú ý xem xét liều lượng gây độc cho gan. Với
liều nhỏ hơn 2-3 g/ngày acetaminophen thấy an tòan và bệnh nhân chịu
đựng được . Khi dùng đường uống với liều lớn hơn 10-15 g sẽ đưa đến tổn
thương gan nặng thường sẽ tử vong , liều này dùng khi có ý định tự sát.
Tổn thương gan do acetaminophen là dạng phổ biến của bệnh gan do thuốc
, đặc biệt hơn là dạng duy gan cấp , thường thấy ở bệnh nhân ở Mỹ. Nồng
độ men gan transaminase ở bệnh nhân ngộ độc acetaminophen thường lớn
hơn 5.000 UI/l.
Ở người nghiện rượu , liều aetaminophen
thông thường điều trị vẫn có thể gây độc cho gan , vì vậy phải cẩn thận
khi dùng acetaminophen cho người nghiện rượu , không dùng nước uống có
cồn để uống acetaminophen.
2.Isoniazide( INH)
Từ giữa thế kỷ 20 , INH là thuốc điều trị
chính cho bệnh lao . Sự tăng men gan thấy xuất hiện vài tuần sau khi
bắt đầu điều trị lao khỏang 10-20% bệnh nhân dùng INH. Sự tăng men gan
này thường ở mức vừa phải và không liên quan dấu hiệu hay triệu chứng
bệnh gan.Ở nhiều bệnh nhân tăng men gan tiếp tục dùng INH vẫn chịu đựng
được và có thể sau đó men gan lại trở về gần bình thường . Nếu có tăng
men gan , ngưng dùng INH thì men gan trở về bình thường trong vòng
1---4 tuần . Tuy nhiên vẫn có ít bệnh nhân khi dùng INH có thể suy gan
cấp ( có thể xảy ra khỏang 0,1 %---2% bệnh nhân).
Bệnh nhân lớn hơn 50 tuổi có nhiều nguy
cơ bị viêm gan khi dùng INH , bệnh nhân trẻ em ít khi có tổn thương gan
xảy ra. Bệnh nhân nữ bị ảnh hưởng nhiều hơn nam. Khi điều trị nên theo
dõi kỹ , để phát hiện viêm gan do INH để ngưng điều trị kịp thời tránh
ảnh hưởng nặng cho gan . Đặc điểm tổn thương gan do INH gây ra:
_ Men ALT tăng nhẹ:
.Xảy ra khỏang 10-20% bệnh nhân
.Xảy ra khỏang 2 tháng điều trị
.Phần lớn có thể khỏi được mà không cần ngưng INH
_ Tổn thương gan trầm trọng với vàng da:
.Xảy ra khỏang 1% bệnh nhân
.Xảy ra khỏang 2% ở bệnh nhân trên 50 tuổi
.Xảy ra ở nữ nhiều hơn nam
_Suy gan tối cấp:
.Xảy ra 10% bệnh nhân đang vàng da
.Tiếp tục điều trị khi gan đang viêm nặng
.Có thể phục hối nếu bệnh nhân không tử vong
Nguy cơ ngộ độc INH càng tăng ở bệnh nhân nghiện rượu.
3.Hợp chất thuốc có nguồn gốc từ cây cỏ và vitamin A:
Nhiều sản phẩm thuốc từ cây cỏ có thể gây
độc cho gan vì sự chế biến thường không theo một tiêu chuẩn nài cả. Còn
nhiều khó khăn để xác định tổn thương gan do thảo dược. Thông thường
phải có sự khai báo của bệnh nhân về thảo dược đã sử dụng.
a.Kava-Kava
Kava là cây cùng dòng họ với cây tiêu .
Từ nhiều thế kỷ qua thường được dùng làm nước uống để điều trị lo lắng
, mất ngủ và những triệu chứng tiền mãn kinh ở dân vùng đảo Nam Thái
bình Dương. Những năm gần đây Kava được dùng ở châu Âu và Mỹ. Nhiều
trường hợp suy gan cấp và đưa đến tử vong do Kava đã xảy ra. Nhiều sản
phẩm chiết xuất từ kava bày bán trên thị trường gây tổn thương gan. Độc
cho gan có thể do phương pháp chiết xuất kava từ rễ của cây.Theo cổ
điển , chiết xuất được làm bằng cách ngâm rễ cây vào nước và hòa tan
với sữa dừa. Ngày nay người ta dùng ethanol hay acetone để pha chế nên
gây độc cho gan.
Dấu hiệu và triệu chứng của bệnh gan
thường xuất hiện trong vòng vài tuần đến 4 tháng sau khi bắt đầu dùng
kava. Ở nhiều bệnh nhân chỉ có duy nhất dấu hiệu tăng men gan . Tuy
nhiên ở vài bệnh nhân suy gan cấp , tử vong có thể xảy ra.
b.Vitamin A (Retinol)
Uống vitamin A quá nhiều là nguyên nhân
gây ngộ độc gan phụ thuộc vào liều lượng có thể đưa đến xơ gan với báng
bụng và tăng áp lực tỉnh mạch cửa. Uống thường xuyên liều lớn vitamin A
(>25.000 đơn vị /ngày) có thể gây ngộ độc mãn tính và tổn thương
gan. Tổn thương gan có thể xảy ra khi uống 15.000---40. 000 đơn vị
/ngày trong một năm , nhưng liều cao hơn có thể ngộ độc trong vòng vài
tháng. Tổn thương gan nhiều hay ít tùy thuộc liều lượng và thời gian sử
dụng. Nhiều bệnh nhân có bệnh gan do vitamin A gây ra có khi không nhận
thấy , chỉ khi bác sĩ lâm sàng thấy có hiện tượng bệnh nhân dùng
vitamin A kéo dài kèm viêm gan mỡ, tăng áp lực tỉnh mạch cửa. Người
nghiện rượu nguy cơ càng cao. Hình ảnh lâm sàng của bệnh là khởi phát
của xơ gan với báng bụng , tăng áp lực tĩnh mạch cửa ,dãn tỉnh mạch
thực quản. Tăng men gan 70% bệnh nhân, tăng nhẹ phosphatase kiềm ,
thỉnh thỏang có tăng nhẹ bilirubin. Ở bệnh nhân không ngộ độc vitamin A
thường có giảm albumin và giảm prothrombin .
VI.Tổn thương gan do dùng thuốc điều trị bệnh nhân nhiễm HIV và siêu vi B hoặc siêu vi C.
Rất khó biết trước được và rất khó đối
phó với những độc tính do thuốc gây độc cho gan ở bệnh nhân HIV trải
qua quá trình điều trị bệnh. Những bệnh nhân này thường liên quan bệnh
gan do rượu , gan thấm mỡ , viêm gan mãn tính B , C và bệnh gan do độc
tính thuốc điều trị. Có ba lọai thuốc điều trị HIV: Pis, NRTIs, NNRTIs
đều gây độc gan. Tình huống càng khó khăn phức tạp khi phải điều trị
kèm viêm gan B , C. Tuy nhiên việc điều trị cần thiết để tránh cho bệnh
nhân không tử vong do xơ gan.
Bệnh nhân nhiễm HIV có nhiễm HCV dễ ngộ
độc gan do thuốc , bệnh nhân nhiễm HCV có nhiễm HIV càng thúc đẩy HCV
phát triển và dễ xơ gan , bệnh nhân dễ bị xơ gan hơn nhiễm HCV một
mình. Những bệnh nhân này rất dễ ngộ độc thuốc chẳng hạn acetaminophen…
và khi dùng rượu rất dễ ngộ độc và dễ đưa đến xơ gan và tử vong. |
oOo
Hãy Tìm Hiểu Về Ung Thư Gan
Gan ta
|
Ung thư là một nhóm bệnh hoặc
căn bệnh được di truyền và khiến tế bào trong người thay đổi và tăng số
một cách không thể kiềm chế được. Nhiều loại tế bào ung thư trở thành
một đống gọi là bướu. Tế bào ung thư độc có thể xâm lấn vào những mạch
máu và bạch huyết, và lan tràn qua những bộ phận khác của cơ thể và từ
đó tiếp tục mọc lớn và cản trở những cơ năng bình thường của bộ phận
đó. |
 |
Gan (St) | |
Ung thư gan gồm có hai loại, một loại bắt
nguồn từ gan (gọi là ung thư gan hạng nhất) và một loại bắt nguồn từ
những bộ phận khác trong người và tràn đến gan (được gọi là ung thư gan
di căn hoặc ung thư gan hạng nhì). Ung thư gan hạng nhất bắt đầu trong
gan, bộ phận lớn nhất trong thân thể mình. Những chức vụ của bộ phận
gan gồm có:
- Tích trữ vi-ta-min và chất dinh dưỡng
- Trao đổi chất dinh dưởng trong cơ thể
- Kiểm soát mức đường trong máu
- Phát xuất yếu tố đông máu
- Khử hoạt tính của thuốc độc và những hoá chất khác
Ung Thư Biểu Bì Tế Bào Gan (Hepatocellular carcinoma, HCC)
HCC, vẫn được gọi là hepatoma, là loại bướu
độc thông thường nhất của ung thư gan hạng nhất. Tuy rằng HCC hiếm có
đối với đa số người dân Hoa Kỳ và Âu Châu, nó chính là một trong 3
nguyên nhân lớn nhất khiến người chết vì ung thư trong nhiều quốc gia Á
Châu và Phi Châu. Tài liệu từ Tổ Chức Y Tế Thế Giới (World Health
Organization) cho biết rằng ít nhất là 550,000 người chết hàng năm vì
HCC, 75% (khoảng 400,000) của số đó là dân của những quốc gia trong
vùng Đông Nam Á Châu và dọc theo bờ Thái Bình Dương. Cở chừng 80% của
những trường hợp ung thư gan là vì gan của bệnh nhân bị nhiễm siêu vi
khuẩn viêm gan B (HBV) kinh niên từ lúc còn bé (đây chính là trường hợp
của nhiều người gốc Á Châu có viêm gan B), phần còn lại là bởi vì nhiễm
siêu vi khuẩn viêm gan C. Trung Tâm
Kiềm Chế và Đề Phòng Bệnh (Centers for Disease Control and Prevention)
cho biết rằng sự bất đồng sức khỏe lớn nhất giữa người Mỹ gốc Á Châu và
người Mỹ trắng là ung thư gan. Chích ngừa để phòng chống viêm gan B có
thể ngăn cản ung thư gan trong 80% người gốc Á Châu ở Hoa Kỳ và khắp
thế giới.
Triệu Chứng
Ung thư gan được gọi là sát thủ âm thầm vì
đa số bệnh nhân vẫn cảm thấy khỏe mạnh và không có dấu hiệu hoặc triệu
chứng. Những đống bướu nhỏ không có thể tìm được qua cách mò vì vị trí
của gan nằm dưới xương sườn và vì thế bị che khuất. Sự đau nhức thường
không có thể cảm giác được cho đến lúc đống bướu đã mọc lớn, và một số
bướu không gây đau nhức hoặc những triệu chứng khác cho dù nó đã to
lớn. Thêm một nguyên do rắc rối nữa là mức mọc của một số loại ung thư
gan. Những giai đoạn chót của ung thư gan, lúc nó đã to lớn hoặc lúc nó
gây trở ngại cho những cơ năng của gan, có thể sanh ra những triệu
chứng rõ ràng như đau nhức trong vùng trên phải của bụng, giảm cân, ăn
không ngon miệng, và cuối cùng là mắt và da bị vàng thêm (bệnh hoàng
đản) và bụng bị phồng lên. Sự chẩn đoán lúc đã quá muộn có thể giải
thích tại sao bệnh nhân chỉ có thể tiếp tục sống trung bình 3-6 tháng
sau khi bệnh đã được phát hiện, và tại sao y giới thường hoài nghi lúc
đề cập đến ung thư gan. Cách duy nhất để tăng thêm kết quả điều trị
chính là chẩn đoán ung thư lúc còn sớm bằng cách truy tìm ung thư trong
những người gốc Á Châu đang có viêm gan B và trong những người đang bị
xơ gan vì nhiễm viêm gan B hoặc C.
Truy Tìm Ung Thư Gan
Một điều quan trọng mọi người phải thừa
nhận là tất cả những người gốc Á Châu có viêm gan B vì bị nhiễm lúc còn
trẻ có nguy cơ cao đễ phát triển bệnh ung thư gan cho dù họ có xơ gan
hay không. Nguy cơ này cao hơn trong những người đàn ông và những người
nào có ung thư gan di truyền trong gia đình. Mọi người đồng ý rằng vấn
đề truy tìm ung thư gan thường xuyên rất là quan trọng cho những người
gốc Á Châu có viêm gan B, nhưng công việc này đối với những người Mỹ
trắng đã bị nhiễm lúc đã lớn tuổi hiện vẫn đang gặp nhiều tranh luận.
Tuy rằng những bệnh nhân gốc Á Châu có thể phát bệnh ung thư gan vào
lúc đang còn tuổi thanh niên, tài liệu từ Hoa Kỳ cho biết rằng sự nguy
cơ phát triển ung thư gan bắt đầu lên cao vào khoảng 30 tuổi. Một cách
hợp lý để đối phó tình trạng này là bắt đầu thường xuyên truy tìm ung
thư gan bắt đầu vào lúc 30-40 tuổi nếu bệnh nhân là người gốc Á Châu.
Việc truy tìm đại khái gồm có một cuộc thử máu để xem xét mức
alpha-fetoprotein (AFP) cách mỗi 6 tháng và siêu âm gan mỗi năm một lần
(Tại Đài Loan, bệnh nhân nên được siêu âm mỗi năm hai lần). Chỉ một
trong hai cách thử nghiệm riêng có thể khiến chẩn đoán sai lầm. Mức
alpha-fetoprotein chỉ lên cao trong 60-70% trường hợp ung thư gan, vì
thế chỉ thử máu riêng thôi sẽ bỏ sót 30-40% trường hợp ung thư gan.
Siêu âm có thể bỏ sót 20% của những trường hợp ung thư gan chưa tới 2
cm, nhất là khi việc phân tích hình siêu âm khó khăn vì gan bị xơ hại.
Sau khi phát bệnh xơ gan, bệnh nhân nên được truy tìm thường xuyên.
Ước Định Tình Trạng Ung Thư Gan
Siêu âm cho gan hoặc xem xét bằng CT thường
có thể được áp dụng để chẩn đoán HCC, nhưng hai cách này thường không
có đủ độ nhạy bén để có thể nhận ra những vết thương tổn nhỏ có nhiều
tiêu điểm hoặc để áp dụng trong kế hoạch điều trị. Chủ yếu là sự ước
định kỹ lưỡng ở vùng bụng qua cách xem xét bằng máy CT xoắn ốc với hai
phương diện. Máy CT xoắn ốc nhanh lẹn này có năng lực để dò xét gan
dưới phương diện động mạch không lâu sau khi bệnh nhân được nhận thức
phẩm trong tĩnh mạch để làm chất tương phản. Các cục bướu thường hay
thâu nhận chất tương phản và vì thế ngay cả các cục bướu chứa đựng
nhiều mạch máu vẫn có thể nhận thấy được. Những cục bướu loại này
thường bị bỏ sót nếu dung kỷ thuật CT thông thường và máy dò xét chậm
chạp. Một vết thương tổn chứa đựng nhiều mạch máu được thấy rõ ràng
dưới phương diện động mạch mà lại phai đi dưới phương diện tĩnh mạch
trong lúc dò xét là đặc tính của HCC. Người Á Châu nào mang bệnh viêm
gan B và có loại bướu này trong gan, hoặc bệnh nhân nào bị xơ gan liên
quan với mức AFP tăng lên (hoặc một mức quá 500), là tương đương với sự
chẩn đoán bệnh HCC và không cần dùng cách sinh thiết để kiểm lại và xác
định. Cách sinh thiết dùng kim nhỏ dưới da có thể được áp dụng trong
trường hợp sự chẩn đoán giữa bướu ung thư gan hạng nhất hoặc ung thư
gan di căn không được chắc chắn, dưới điều kiện là thí nghiệm này có
thể được thực hiện một cách an toàn. Sự chảy máu sau khi thử nghiệm
sinh thiết có thể đe dọa đến sinh mạng nếu bệnh nhân bị xơ gan và có số
lượng tiểu cầu thấp, thời gian đông máu kéo dài, và mạch máu mở rộng vì
tăng áp suất (tăng huyết áp mạch cửa). Đại khái, vết thương tổn gan
loại di căn rất hiếm có trong những bệnh nhân bị xơ gan.
Điều Trị HCC
Điều trị cho ung thư gan được gặp nhiều
thách thức so với những loại ung thư khác vì ngoài căn bệnh, gan của
nhiều bệnh nhân đã bị thiệt hại do bệnh viêm gan kinh niên gây đến xơ
gan hoặc suy nhược gan. Ðiều trị cho bệnh ung thư gan mà lại không chú
ý đến tình trạng bấp bềnh của bộ gan có thể khiến bệnh nhân chết sớm
hơn. Nhiều bệnh nhân có bộ gan yếu đến nỗi họ có nhiều nguy cơ chết vì
hư gan hơn là chết vì có ung thư. Cho mỗi bệnh nhân, những lợi ích của
các cách trị liệu phải được so sánh và cân bằng với nguy cơ hư gan và
cách tình trạng ấy có thể ảnh hưởng đời sống của họ. Tại trường đại học
Stanford, một phương hướng mới đã được chọn để cho những bệnh nhân nào
có bướu trong gan có thể được khám xét bởi một nhóm chuyên gia tại
Trung Tâm Kỷ Luật Gan/Ban Bướu để bàn cách điều trị bướu và những căn
bệnh gan hoặc viêm gan. Những cách trí liệu mới cũng được khám xét. Tất
cả các bệnh nhân được điều trị sẽ được theo giỏi lâu dài và được ghi
tên vào hệ thống đăng ký điện tử của trường Stanford.
Ðiều Trị bằng cách Giải Phẫu
Lúc cục bướu vẫn còn nhỏ hoặc cho rằng có
thể cắt bỏ được, và tình trạng của gan của bệnh nhân có đủ năng lực để
trải qua cuộc giải phẩu, thì cách giải phẩu cắt bỏ là cách hữu ích nhất
để cho bệnh nhân sống lâu dài. Sự cải tiến trong ngành giải phẩu và
cách điều khiển thuốc mê đã tăng tỷ lệ sống sót và hạ nguy cơ thiệt
mạng trong thời gian giải phẩu xuống còn ít hơn 2-5% dưới sự điềi trị
của y sĩ kinh nghiệm, và đa số bệnh nhân có thể dời bệnh viên sau 5
ngày. Tuy rằng cục bướu đã được cắt bỏ hoàn toàn, bệnh nhân vẫn có nguy
cơ rằng căn bệnh sẽ tái phát, và họ cần phải luôn luôn được kiểm tra kỹ
lưỡng, nhất là trong năm đầu tiên, lúc nguy cơ tái phát bệnh được cao
nhất.
Ðiều Trị ngoài cách Giải Phẫu
Cho những bệnh nhân nào không có đủ điều
kiện để được cắt bỏ bướu vì lý do sức khỏe hoặc cơ thể, một số cách
điều trị khác, tuy ít hiệu lực, đang được có sẵn hoặc đang được nghiên
cứu để tìm cách kiềm chế căn bệnh lâu dài và với mục đích gìn giữ lối
sống bình thường của bệnh nhân. Sự điều trị cho những bệnh nhân này
phải tùy theo tình trạng của bệnh nhân, tình trạng của gan, và mức phát
triển của căn bệnh. Hoá liệu pháp thông thường đại khái có hiệu lực
thấp, khiến rất nhiều tác dụng thứ yếu có thể giảm bớt phẩm chất của
đời sống bệnh nhân, và thường không có thể kéo dài đời sống cho bệnh
nhân. HCC là bướu chứa đựng nhiều mạch máu thường được tiếp tế bởi
những nhánh của đường đông mạch trong gan. Tài năng của chuyên gia can
thiệp bằng tia X để đi thông qua những đường mạch này và đưa ống thuốc
chính xác đến những nhành này cung cấp cho chúng ta một cách để nhắm
liệu pháp trực tiếp vào đống bướu. Cách điều trị dùng hoá chất để chấn
động mạch hoặc đổi máu với nước biển trong tĩnh mạch (TACE hoặc TAC)
của gan thường được dùng bởi chuyên gia can thiệp bằng tia X tại Á Châu
và đã được áp dụng bởi Phòng Mạch Gan Toàn Diện tại Stanford trong bốn
năm qua để chữa trị một số bệnh nhân có vết tổn thương không có thể cắt
bỏ được. Tuy rằng cách chữa trị này chỉ dùng để điều trị dưới những
điều kiện rất khó khăn và kỷ lưỡng để giảm nguy cơ tai hại những phần
trong gan không có vết tổn thương, cách điều trị này không có hợp với
những bệnh nhân có dấu hiệu suy gan (chất đản bạch trong huyết thanh
dưới 3 gm/dL, chất sắc tố mật quá 1.5 gm/dL, và có nước trong bụng gọi
là cổ trướng) và những bệnh nhân có tĩnh mạch cửa bị chận lại. Cho
những bệnh nhân có phản ứng tốt, bệnh nhân sẽ được điều trị mỗi 4 tháng
nếu cần thiết cho đến lúc mức AFP trở lại bình thường hoặc đến lúc hết
tìm thấy vết tổn thương. Cách điều trị này chỉ cần bệnh nhân ở nhà
thương qua đêm để theo dỏi và thường có thể chịu đựng được nếu dùng
cách nêu trên. Những cách điều trị lâu dài với TACE hoặc TAC có liên
quan với sự kéo dài đời sống của bệnh nhân, và trong trường hợp đống
bướu được kiểm soát kỷ lưởng hoặc teo rút nhỏ lại, bệnh nhân có thể
được giải phẩu cắt bỏ hoặc ghép gan.
Ghép Gan
Ghép gan là một cách điều trị HCC nếu không
có thể áp dụng giải phẩu hoặc những cách y khoa khác để cắt bỏ bướu,
dưới điều kiện là đống bướu còn nhỏ (dưới 5 cm hoặc có ít hơn 4 vết
thương tổn), nằm hoàn toàn trong gan, và không có xâm lấn vào mạch máu.
Một bản báo cáo về một cuộc nghiên cứu bởi Trung Tâm Gan Á Châu tại
Trường Đại Học Stanford cho thấy rằng những bệnh nhân nào có phản ứng
tốt với TACE hoặc TAC cũng có tỷ lệ sống sót cao sau khi ghép gan. Các
đống bướu lớn có nguy cơ cao để tái phát và bệnh nhân có thể chết sau
khi ghép gan. Sau khi ghép gan, bệnh nhân phải được tiếp nhận huyết cầu
miễn dịch viêm gan B (HBIG) hoặc lamivudine, hoặc cả hai, để ngăn ngừa
sự lây nhiễm HBV trong gan mới. Điều trị ung thư gan vẫn là một vấn đề
rất là khó khăn và cần sự thấu hiểu trong rất nhiều ngành, gồm bệnh ung
thư gan, cách chẩn đoán bằng tia X, giải phẩu, ghép bộ phận, và những
căn bệnh liên can với gan. Sự chẩn đoán những đống bướu nhỏ lúc còn sớm
là cách hữu ích duy nhất để tăng thêm kết quả điều trị ung thư gan, và
trường hợp này chỉ có thể xảy ra qua sự truy tìm trong những dân số có
nguy cơ cao.
|
oOo
Nếu dùng
Paracetamol (acetaminophen) , thuốc giảm đau thông thường với rượu sẽ
gây nguy hại cho gan nhưng một nghiên cứu mới đây ở Mỹ cho thấy, dùng
Paracetamol với cafeine (chất có nhiều trong cà phê) cũng có thể làm
tổn thương gan.
Từ lâu, người ta đã biết hậu quả nguy hiểm và
có khả năng gây chết người của việc kết hợp giữa rượu với acetaminophen
- hay paracetamon, một trong những loại thuốc giảm đau phổ biến. Thế
nhưng, theo một nghiên cứu mới của đại học Washington, Seattle, thì
việc kết hợp một lượng lớn cafeine với acetaminophen cũng có thể gây
nguy hại.
Không chỉ uống cafeine khi đang sử dụng thuốc mới
nguy hiểm mà ngay cả một số cách điều trị kết hợp giữa cafeine với
acetaminophen như rối loạn kinh nguyệt, viêm khớp và nhiều chứng bệnh
khác cũng có thể làm suy giảm chức năng của thận, huyết áp cao và gây
ra đột quị.
Tiến
sĩ Sid Nelson, đại học Washington, và nhóm nghiên cứu cho hay
acetaminophen và caffeine tác động lên một enzyme quan trọng trong cơ
thể con người có liên quan đến quá trình giải độc ở gan.

Công thức hóa học và cấu trúc phân tử của Paracetamol. (Ảnh: 3dchem)
Nghiên cứu cho thấy caffeine làm tăng
gấp 3 lần chất N-acetypl-p- benzoquinone (NAPQI), một phó phẩm độc sản
sinh bởi enzyme trong quá trình làm giảm lượng acetaminophen.
NAPQI
cũng làm gan bị tổn thương và khiến cho quá trình tương tác giữa cồn và
acetaminophen gây hại cho cơ thể. Thử nghiệm trên chuột đã được tiêm
acetaminophen cũng cho thấy một lượng caffeine cao có thể làm tổn hại
gan.
Nói về nghiên cứu mới này của mình, tiến sĩ Nelson cho
hay mục đích của cuộc nghiên cứu là để cảnh báo cho mọi người về mối
nguy tiềm tàng giữa việc kết hợp paracetamol và caffeine. Mặc dù vậy,
bạn không nhất thiết là phải ngừng sử dụng acetaminophen hay caffeine,
mà điều quan trọng là bạn phải thận trọng điều chỉnh liều lượng của
chúng khi kết hợp. Đặc biết, nếu bạn uống rượu thì bạn còn phải thận
trọng hơn nữa.
Uống Tylenol quá liều coi chừng hại gan
CHICAGO (AP) -
Những người lớn khỏe mạnh dùng những liều lượng thuốc Tylenol tối đa
trong hai tuần lễ đã có những kết quả bất bình thường về thử nghiệm gan
trong một cuộc nghiên cứu mới, dẫn tới những lo ngại rằng ngay cả những
liều lượng do bác sĩ kê đơn của loại thuốc chống đau nhức thông dụng
này cũng có thể làm hại cho gan.
Trong cuộc nghiên cứu, 106
người tham gia đã uống 4 grams Tylenol - tương đương với 8 viên Tylenol
thuộc loại “extra-strength” (loại mạnh ngoại hạng mỗi viên 500mg) - mỗi
ngày trong hai tuần lễ. Một số người chỉ uống Tylenol, một số khác uống
cùng với một loại thuốc chống đau nhức có chứa chất thuốc phiện. Trong
khi đó, có 39 người được cho uống những viên thuốc giả không có dược
chất gì cả.
Không có hậu quả gì xảy ra cho những
người uống thuốc giả. Nhưng gần 40 phần trăm những người thuộc hai nhóm
kia đã có những kết quả thử nghiệm bất bình thường cho thấy những dấu
hiệu về sự thương tổn của gan, theo cuộc nghiên cứu.
“Tôi thấy
cần cảnh giác công chúng đừng dùng liều lượng Tylenol cao hơn 4 grams
mỗi ngày. Ðây là một thứ thuốc có tầm mức an toàn khá nhỏ hẹp,” lời Bác
Sĩ Neil Kaplowitz thuộc trường đại học University of Southern
California.
Ông nói thêm rằng những người uống nhiều rượu đừng dùng quá 2 grams Tylenol mỗi ngày.
Một
đồng tác giả của cuộc khảo cứu, Bác Sĩ Paul Watkins, thuộc trường đại
học University of North Carolina, nói rằng ông ít lo ngại hơn BS
Kaplowitz và ghi nhận rằng dược chất acetaminophen, thành phần chính
của thuốc Tylenol, đã được sử dụng trong 50 năm qua và có thành tích
tốt về an toàn.
Hãng
sản xuất của Tylenol, McNeil Consumer & Specialty Pharmaceuticals,
nói rằng cuộc nghiên cứu của chính họ tìm thấy những tỉ lệ thấp hơn về
hậu quả bất bình thường cho gan. Những cuộc khảo sát của công ty này đã
theo dõi những người dùng liều lượng Tylenol cao trong những thời kỳ
lâu dài hơn cuộc nghiên cứu mới nói trên.
Những người tham gia
cuộc nghiên cứu đó đã được mướn do hãng bào chế Purdue Pharma LP, nhà
sản xuất của thuốc chống đau nhức cần có toa bác sĩ tên là OxyContin,
để tìm hiểu tại sao có những kết quả thử nghiệm bất bình thường cho gan
nơi những người được thí nghiệm để dùng một thứ thuốc tổng hợp gồm dược
chất acetaminophen và dược chất hydrocodone có chứa thuốc phiện.
Acetaminophen
là dược chất thông dụng hơn aspirin và ibuprofen. Mỗi tuần lễ có 1
trong 5 người thành niên ở Hoa Kỳ dùng thuốc này để trị đau nhức hoặc
sốt, theo một cuộc khảo sát trong năm 2002.
Acetaminophen được
dùng trong nhiều thứ thuốc có thể mua tự do hoặc cần có toa bác sĩ;
điều này khiến cho người ta dễ sử dụng quá liều lượng, khi họ vô tình
dùng vài thứ thuốc có chứa dược chất đó cùng một lúc. Sự sử dụng quá
liều lượng acetaminophen là nguyên nhân chính yếu dẫn tới chứng đau gan
cấp tính.
Bác Sĩ Watkins nói rằng những người đang tính thay đổi thuốc chống đau nhức cần nên biết rằng những dược chất khác cũng gây ra
những phản ứng phụ, như xuất huyết hoặc kích thích trong bao tử.
Acetaminophen
- một dược phẩm được sử dụng khá phổ biến tại nhiều quốc gia trên thế
giới nhằm làm giảm đau và điều trị các chứng mạn tính vừa được Tổ chức
Thuốc và thực phẩm mỹ - FDA cảnh báo là có ảnh hưởng xấu đến gan nếu sử
dụng quá nhiều.

Ảnh minh họa
Kết quả
này được đưa ra sau khi một cuộc nghiên cứu cho thấy hàng trăm người
tại Mỹ đã bị suy giảm chức năng gan sau nhiều năm sử dụng acetaminophen
và loại dược phẩm có tên gọi tylenol. Khoảng 100 người bị chết mỗi năm
tại nước này do sử dụng quá liều thuốc tylenol có chứa acetaminophen.
Mặc dù loại thuốc này dùng theo chỉ định của bác sĩ, song, có không ít
bệnh nhân chủ quan đã lạm dụng thuốc và tự ý sử dụng bất cứ khi nào bị
đau, hay bị sốt. Chính điều này đã làm gia tăng những hệ quả xấu đối
với gan.
Lượng acetaminophen tối đa mà một người
được phép sử dụng để điều trị giảm đau theo chỉ dẫn của bác sĩ không
được vượt quá 3,250 - 4g một ngày.
Một kết quả điều tra xã hội
cũng cho thấy: những người trẻ tuổi sử dụng acetaminophen để làm thuốc
giảm đau và chống lại chứng đau đầu có tỷ lệ mắc bệnh trầm cảm và tự tử
cao hơn nhiều so với những người bình thường.
******************************************************************
Thuốc Acetaminophen và Tuyến Gan
Cuối tháng 6 năm 2009, Cơ Quan Thực Dược Phẩm Hoa Kỳ FDA đã họp
với Hội Đồng Cố Vấn của cơ quan để thảo luận về sự liên hệ giữa
acetaminophen với bệnh suy tuyến gan và yêu cầu thành viên đề nghị các
biện pháp để thuốc này trở nên an toàn hơn cho người tiêu thụ.
Thống
kê từ năm 1990 tới 1998 cho hay đã có 56.000 bệnh nhân cần vào phòng
cấp cứu, 26.000 người phải nằm bệnh viện để điều trị và 458 tử vong vì
ngộ độc acetaminophen.
Ban cố vấn đã đưa ra một số đề nghị như sau để FDA cứu xét và quyết định:
-Liều
lượng acetaminophen cá nhân cho người lớn không quá 650 mg. Hiện nay
liều lượng này là 1000 mg, chứa trong 2 viên thuốc chống đau bán không
cần toa bác sĩ.
-Giảm liều lượng tối đa trong 24 giờ dưới mức hiện nay là 4000 mg.
-Loại bỏ các hỗn hợp dược phẩm bao gồm acetaminophen và các thuốc khác.
-FDA cần đòi hỏi các viện bào chế dược phẩm phải ghi lời báo động rủi ro trên nhãn hiệu các dược phẩm có acetaminophen.
-Quy
định một nồng độ đồng đều acetaminophen trong các dung dịch thuốc trị
nóng sốt, đau nhức cho trẻ em để tránh dùng nhầm liều lượng.
Acetaminophen
hoặc Paracetamol là hoạt chất chính của một loại thuốc giảm đau, hạ
nhiệt được dùng rộng rãi tại mọi quốc gia. Có lẽ bà con trong ngoài
nước quen thuộc với tên riêng Tylenol hoặc Panadol nhiều hơn là tên
chung acetaminophen. Chất này hiện diện trong nhiều dược
phẩm bán tự do như Tylenol, Anacin, Exedrin, Panadol, trong một số
thuốc trị bệnh cảm cúm cũng như các thuốc cần toa bác sĩ như Vicodin, Lortab, Maxidone , Norco, Zydone, Tylenol with codeine, Percocet , Endocet, Darvocet .
Acetaminophen
được tìm ra vào cuối thế kỷ 19 nhưng phải đợi tới năm 1956 mới được bào
chế thành viên thuốc 500 mg bán trên thị trường. Trước
đó, vỏ cây canh ki na (cinchola) được dùng để trị bệnh sốt rét ngã nước
(quinine) và nóng sốt. Vỏ cây này ngày càng khan hiếm cho nên các khoa
học gia phải nghĩ cách tổng hợp loại thuốc chống đau thay thế.
Tương
tự như Aspirin, paracetamol có tác dụng giảm sản xuất chất
prostaglandins từ nhiếp tuyến (prostate) và từ một số tế bào khác trong
cơ thể. Chất này có nhiều vai trò sinh học như kiểm soát huyết áp, co
cơ trơn, cảm giác đau, giãn động mạch và phế quản, loãng máu, chống
huyết cục, giãn nở tử cung...
Acetaminophen
được dùng để giảm các cơn đau từ nhẹ tới trung bình như nhức đầu, thiên
đầu thống, đau nhức cơ, viêm khớp, đau khi có kinh nguyệt, nhức răng...
Acetaminophen cũng hạ sốt cho nên được pha chung trong các thuốc cảm
cúm, ho, dị ứng. Tuy nhiên, thuốc không có tác dụng chống viêm, sưng
(inflammation and swelling) như aspirin.
Thuốc
thích hợp cho mọi lứa tuổi vì ít tác dụng phụ và không gây kích thích
dạ dày như aspirin hoặc các thuốc chống viêm đau không steroid như
ibuprofen, indomethacin, naproxen…
Dùng
đúng theo liều lượng và hướng dẫn của nhà bào chế, thuốc an toàn, nhưng
vì thuốc quá phổ biến cho nên đôi khi có người uống quá nhiều mà không
biết.. Ngoài ra, acetaminophen có chỉ số trị liệu giới hạn, một liều
lượng thông thường rất gần với liều lượng quá cao, cho nên dễ gây ra
ngộ độc, tồn thương và suy gan, suy thận. Bệnh nhân có thể thiệt mạng
trong thời gian ngắn.
Các
dấu hiệu của suy gan có thể là nôn ói trầm trọng, da và mắt vàng, đau
bụng, nước tiểu có mầu vàng xậm, cơ thể mệt mỏi suy nhược.
Sau đây là mấy điều cần lưu ý để tránh ngộ độc khi cần dung Acetaminophen:
-Không
dùng quá số lượng mà nhà bào chế chỉ định tức là không quá 4000 mg một
ngày hoặc là không quá 8 viên extrastrenght Tylenol
-Đọc kỹ nhãn hiệu của tất cả các thuốc đang dùng để coi xem có acetaminophen không.
-Nếu
uống rượu, đang bị viêm gan, bệnh thận nên hỏi ý kiến bác sĩ trước khi
dùng acetaminophen. Trong các trường hợp này, nên giới hạn
acetaminophen ở mức độ từ 2000-3000 mg/ngày.
-Cẩn
thận khi cho con trẻ uống các thuốc bán tự do có acetaminophen khi các
cháu bị cảm cúm, ho, hắt hơi sổ mũi. Lý do là trong các thuốc này có
thể có acetaminophen.
-Với
người từ 16 tuổi trở lên, có thể uống cùng lúc acetaminophen với
ibuprophen để chống đau, giảm nhiệt vì với họ, không có tương tác giữa
hai thuốc này.
-Với các em bé, có thể dùng acetaminophen hoặc ibuprophen để giảm đau, giảm sốt nhưng
không bao giờ dùng hai thứ cùng một lúc. Nếu sau 72 giờ mà đau sốt
không thuyên giảm, nên đưa các cháu tới bác sĩ để được điều trị.
Mọi năm, bà
con chỉ bận tậm tới việc chích ngừa cúm theo mùa thường xuất hiện vào
cuối mùa Thu, đầu mùa Đông. Nhưng năm nay, cần chích ngừa tới hai loại
cúm lận. Lý do là từ tháng Tư vừa qua, một đại dịch cúm heo lây lan
sang người đã và đang hoành hành khắp nơi trên thế giới, gây ra bệnh
cho cả vài trăm ngàn người, nhưng may mắn là số tử vong không cao lắm,
trên 1000 người.
Với cúm
hàng năm thì ngay sau khi đọc bài viết này, xin bà con tới bác sĩ gia
đình hoặc tới các cơ sở y tế để được chích ngừa. Năm nay thuốc chủng đã
có từ tháng 8, thay vì tháng 10 như mọi năm. Bây giờ đã là giữa tháng
9, bà con cô bác cần chủng ngừa ngay, để cơ thể có đủ thời gian sản
xuất ra kháng thể chống lại siêu vi cúm theo mùa. Sau đó một số người
lại chủng ngừa cúm mới A/H1N1 vào tháng 10.
Đa số
chủng ngừa cúm theo mùa đều do những cơ sở y tế tư nhân thực hiện. Tại
Hoa Kỳ, các tiệm thuốc tây thuộc hệ thống CVS, Wallgreen, Rite Aid đều
có chương trình chích ngừa miễn phí cho người thất nghiệp, không tiền,
không có bảo hiểm sức khỏe. Chi phí chích ngừa cúm từ 15- 30 mỹ kim và
đa số do bảo hiểm đài thọ.
Bà con sau đây cần chích ngừa cúm quen thuộc, theo mùa mỗi năm:
- Người cao tuổi và các em bé từ sáu tháng trở lên;
- Những người vì nghề nghiệp dễ mắc hay truyền bệnh cúm như nhân viên các cơ sở y tế, nhà dưỡng lão;
-
Những người mà bệnh cúm có thể gây nhiều tử vong, như đã có các bệnh
kinh niên về tim, phổi, ho suyễn, tiểu đường, bệnh kinh niên về thận;
- Người mắc bệnh xơ gan vì nghiện rượu;
- Người suy yếu miễn dịch như ung thư máu, đang chữa ung thư bằng phóng xạ, hóa chất.
- Phụ nữ đã có thai từ ba tháng trở lên cần được chích ngừa cúm với loại siêu vi trùng đã làm giảm cường lực.
Riêng
với cúm heo, mà hiện nay được gọi là cúm mới lạ A/H1N1 thì các viện bào
chế đang tận lực cùng nhau sản xuất thuốc chủng ngừa. Theo dự trù,
thuốc chủng ngừa cúm A/H1N1 sẽ sẵn sàng vào tháng 10.
Ban đầu
các nhà bào chế nói là phải chích hai lần để có tính miễn dịch đủ mạnh
bảo vệ đối với siêu vi mới A/H1N1. Siêu vi này là sự kết hợp các gen
của siêu vi cúm theo mùa, cúm heo, cùm gà mà thành.
Mới
đây, một viện bào chế bên Trung Hoa và một viện bào chế tại Hoa Kỳ cho
hay là họ có thể sản xuất vaccin chỉ chích một lần là đủ.
Các cơ
quan y tế thế giới, Hoa Kỳ và các quốc gia đang cân nhắc coi các đối
tượng nào cần chích ngừa. Cho tới bây giờ, những người thuộc các nhóm
sau đây được CDC ưu tiên:
-Phụ nữ đang có thai.
-Mọi người từ 6 tháng tới 24 tuổi
-Nhân viên y tế, phòng cấp cứu
-Người chăm sóc hoặc sống với trẻ em dưới 6 tháng tuổi.
-Người
từ 25 tới 64 tuổi đang có các bệnh có rủi ro cao của biến chứng với
bệnh cúm như hen suyễn, tiểu đường, bệnh tim phổi hoặc các nan bệnh
kinh niên khác.
Theo
Hội Đồng Tư Vấn Khoa Học và Kỹ Thuật trực thuộc văn phòng Tổng Thống
Hoa Kỳ Barrack Obama thì vào mùa Thu năm nay có thể có tới 1.8 triệu
người nhập viện điều trị vì mắc bệnh cúm mới lạ A/H1N1.
Nhắc
lại là cúm mới lạ A/H1N1 lây lan từ người sang người qua các giọt nước
nhò li ti tung ra không khí từ mũi, miệng bệnh nhân chứa virus hoặc từ
bàn tay sờ mó vào vật dụng dính virus rồi đưa lên mũi, miệng. Do đó mới
có lời khuyên là che miệng khi ho, hắt hơi, rửa tay thường xuyên.
Cũng vì lây lan qua miệng qua bàn tay, cho nên mới đây, bên Tây
người ta đã nghĩ đến chuyện bỏ thói quen lịch sự, xã giao ôm hôn áp má,
bắt tay khi gặp hoặc giã biệt mà chỉ nghiêng đầu cúi chào. Vì tuy ít
nghiêm trọng chết người hơn cúm theo mùa, nhưng A/H1N1 lây lan rất
nhanh, dễ dàng gây ra đại dịch với hàng triệu bệnh nhân trong tương
lai.
Viên aspirin với heart attack
Ngày
11 tháng 8 năm 2009 vừa qua, đài truyền hình CNN có tường trình một sự
việc liên quan tới viên thuốc chống đau aspirin và cơn đau tim heart
attack của một hành khách đang ngồi trên máy bay của công ty hàng không
Delta.
Vị
hành khách này đột nhiên lên cơn suy tim. Một hành khách khác là bác sĩ
vội vàng cứu chữa và cho bệnh nhân nhai nuốt một viên thuốc aspirin
trong tủ thuốc cấp cứu. Máy bay khẩn cấp đáp xuống phi trường gần nhất.
Nạn nhân được đưa vào bệnh viện và được thông tim, cứu sống. Bác sĩ
chuyên khoa tại phòng cấp cứu tuyên bố là mặc dù ông ta không dám quả
quyết nhưng rất nhiều khả năng viên aspirin đã góp phần cứu sống bệnh
nhân. Theo ông, đã có nhiều nghiên cứu cho hay uống một viên aspirin
ngay khi cơn đau tim xuất hiện có thể giúp duy trì mạng sống.
Aspirin
giảm sản xuất prostaglandins trong cơ thể. Một trong những tác dụng của
chất này là kích thích tiểu bào kết tụ với nhau, tạo ra huyết cục.
Huyết cục tới tim, gây ra heart attack, tới não đưa tới đột quỵ stroke.
Với khả năng ngăn chặn sản xuất prostaglandins, aspirin giảm rủi ro cơn đau tim.
Theo
thống kê, hiện nay có tới 50 triệu người dân Hoa Kỳ đang uống một viên
aspirin mỗi ngày để phòng tránh cơn đau tim. Nhưng các nhà chuyên môn
nhấn mạnh là viên thuốc này ví như con dao hai lưỡi: có thể làm tan cục
máu gây ra heart attack, đồng thời cũng gây ra xuất huyết nguy hiểm tới
tính mạng.
Đã
có nhiều nghiên cứu về tác dụng của aspirin với cơn đau tim. Ủng hộ
cũng có mà dè dặt cũng nhiều. Cho nên trước khi dùng thuốc này trong
mục đích phòng tránh stroke và heart attack, bà con nên hỏi ý kiến bác
sĩ gia đình và bác sĩ chuyên khoa tim mạch về liều lượng, cách dùng.
Hiệp Hội Tim Hoa Kỳ đề nghị dùng aspirin đối với bệnh nhân đã có nhồi máu cơ tim, cơn đau trước ngực không ổn định (unstable angina), đột quỵ thiếu máu cục bộ gây ra do huyết cục (
ischemic stroke), cơn thiếu máu cục bộ nhẹ (tranient ischemic attack),
cũng như để tránh xảy ra các biến cố này ở người có rủi ro, nếu không
có các chống chỉ định như xuất huyết, dị ứng với aspirin. Các rủi ro đó
là hút thuốc lá, cao huyết áp, cao cholesterol, tiểu đường, thân nhân
bị bệnh tim.
Nói chung là:
-Khi
thấy triệu chứng báo động heart attack, kêu 9-1-1 ngay tức thì. Nhân
viên cấp cứu sẽ hướng dẫn cho ta cần làm gì, kể cả có uống aspirin hay
không.Triệu chứng báo động là đau quặn như ép trước ngực, lên vai, lên
cố, hụt hơi thở, đổ mồ hôi hột, quay cuồng chóng mặt.
-Không tự quyết định dùng aspirin với mục đích phòng tránh heart attack.
-Không uống aspirin khi bụng đói để tránh kích thích, xuất huyết dạ dày.
-Không uống rượu khi dùng aspirin, vì xuất huyết dạ dày sẽ trầm trọng hơn.
Vài hàng rông rài, hy vọng đóng góp chút kiến thức căn bản để bà con cô bác bảo vệ sức khỏe, an hưởng lộc trời.
Bác sĩ Nguyễn Ý Đức, M.D.
Texas-Hoa Kỳ.
Sưu tầm Lê thị Kiểm
|